Người Việt và nem, phở ở châu Phi [Bài 3]

Bùi Văn Phú

[Đây là phần cuối của bài kí sự đăng 3 kì về chuyến du lịch Ghana và Côte d’Ivoire của tác giả vào mùa xuân 1985 với những gặp gỡ, tiếp xúc đầy bất ngờ và thích thú.]

[Bài 1] * [Bài 2]

Ki-ốt bán nem và tôm chiên của người Việt

Ra khỏi chợ Cocody, ngó quanh tìm trạm xe buýt cho chuyến về thì gặp một ki-ốt đặt bên hông chợ với chữ NEM thật to. Thấy người bán là Á đông, tôi hỏi thăm và biết là người Việt. Anh Vương Tường làm chủ ki-ốt, tuổi độ trung niên. Không như mấy tủ nem dưới phố, ki-ốt có bếp ga để chiên nóng tại chỗ và có cả nước mắm chua cay ngọt phục vụ khách.

Nem ở đây to hơn. Bánh tôm chiên nhỏ hơn nhưng đích thực là tôm chiên tẩm bột vì chỉ có đầu con tôm nhúng vào bột với đuôi tôm lòi ra. Tôi mua 4 nem và 2 tôm, 400F. (1 USD = 500 CFA, là đồng Franc dùng trong các nước nói tiếng Pháp ở miền tây châu Phi)

Với nước mắm, vừa ăn và trò chuyện với anh Tường vì muốn biết ít nhiều về người Việt sinh sống ở đây. Anh kể món nem và tôm chiên nguyên thủy do một người Hoa sống ở Nam Vang qua Việt Nam làm ăn, sau khi cộng sản vào, ông kẹt lại đến năm 1980 qua đây và sống bằng nghề làm chả giò và tôm chiên. Những người da đen bán hàng bên khu Plateau là làm công cho ông. Theo lời anh, bánh tôm chiên nhiều bột là kiểu châu Phi vì người địa phương thích ăn nhiều bột như thế. Còn bánh của anh đúng mốt Việt Nam, bán cho khách đa số là người Pháp cư ngụ trong khu Cocody. Hỏi thăm về người Việt anh cho biết bên khu Marcory có tiệm chạp-phô Sunky, bên Plateau có nhà hàng Hoà Bình là của người Việt làm chủ.

Anh Tường trước có cửa tiệm trên đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn, gần toà hoà giải rộng quyền. Cộng sản vào anh kẹt lại đến năm 1980 được bảo trợ qua đây. Anh tưởng Côte d’Ivoire là một tỉnh ở miền nam nước Pháp chứ không biết đây là một xứ châu Phi.

Lúc mới qua anh cũng đi làm mướn, ít lâu sau sang lại ki-ốt để tự do buôn bán. Ngày mở cửa từ 8 giờ sáng đến 1 giờ trưa và chiều từ 4 đến 8 giờ tối. Công việc không vất vả lắm. Ngày đắt khách bán 300 nem và 100 tôm chiên. Ít khách cũng được 200 nem, dăm chục tôm. Sau gần năm năm định cư anh đã mua được chiếc xe hơi Toyota.

Khách hàng đa dạng như tôi quan sát thấy. Có cặp vợ chồng người Phi Luật Tân mua 100 cái chả giò. Vài bà đầm mỗi người năm, bảy cái. Trẻ con cũng thích món ăn vặt này, có 75F là chạy đến mua ngay nem. Mấy em phát âm chữ “nem” nghe rõ ràng. Mấy cô gái Algérie da như bánh mật, mấy cô học trò bản xứ hay ăn quà cũng ghé vào mua đôi ba cái. Trong khoảng một giờ tại ki-ốt tôi ước chừng anh bán được đến hai trăm cái vừa nem rán và tôm.

Bưu ảnh phản ánh hệ thống xe buýt rất tiện ích cho cư dân Abidjan

Quá chiều tôi từ giã anh Vương lên xe buýt về nhà trọ. Khi xe dừng ở một trạm, có hành khách ngồi cạnh cửa sổ đập nhẹ vào tay tôi, rồi chỉ ra phiá ngoài. Ngó ra, qua ánh đèn là những người da đen bản xứ. Bỗng nghe từ đám đông có người hỏi lớn: “Anh người Việt Nam hả?” bằng tiếng Việt chính gốc, nghe không lơ lớ, lai lai. Tôi ngạc nhiên thấy có người da đen nói tiếng Việt sõi quá, rồi trả lời ngay: “Vâng. Tôi người Việt. Anh cũng người Việt hả?”. Thế là câu chuyện giữa hai chúng tôi bắt đầu. Anh hỏi tôi từ đâu đến, làm việc ở đây hay đi du lịch. Hành khách trên xe thấy chúng tôi nói ngôn ngữ lạ nên cười quá trời. Mọi người đã lên xuống hết nhưng tài xế vẫn chưa chạy để hai chúng tôi tiếp tục câu chuyện. Anh nhảy lên xe, nói chuyện tiếp, mời tôi lại nhà chơi vào ngày mai. Tôi nhận lời ngay và được anh chỉ cách cho tôi đón xe buýt đến nhà anh vào sáng mai, lúc 9 giờ. Trước khi từ giã, chúng tôi giới thiệu cho nhau biết tên. Đó là anh Hùng, làm việc soát vé cho công ti xe buýt, vì thế mà tài xế biết anh và đã không chạy khi chúng tôi còn đang nói chuyện với nhau.

Treichville là khu lao động, nhiều nhà trọ, khách sạn rẻ. Hai bên những con đường quanh khu vực tràn ngập hàng quán. Tối về ra quán bên đường ngồi ăn thịt gà, bò hay dê nướng than, vừa uống bia vừa thưởng thức nhạc trong ánh đèn chỗ mờ chỗ tỏ, trong ánh lửa phập phồng của bếp than, nhìn ngắm cuộc sống của cư dân cũng vui say, nhộn nhịp. Đủ loại nhạc: châu Phi với những điệu dễ làm làm người nghe nhún nhảy, nhạc Pháp tình tứ lãng mạn qua giọng hát Nana Mouskouri, Julio Iglesias. Nhạc Mỹ đem đến cho tôi nỗi nhớ nhà, nhất là bài “Hotel California” thịnh hành lúc tôi rời Mỹ, giờ đang vọng ra từ một quán, vang vang bên tai.

Đường phố trong một khu cư dân lao động

Sáng hôm sau tôi qua khu Adjamé gặp anh Hùng như đã hẹn. Anh sống trong một khu dân cư trông xập xệ, nghèo. Lề đường cũng có hàng quán nhưng không nhiều như bên Treichville. Vào khu xóm này tôi như thấy mình đang trở lại khu Bàn Cờ hay Khánh Hội.

Anh dẫn tôi trở lại Treichville ăn sáng kiểu châu Phi. Theo sách du lịch đây là khu bình dân. Ngồi quán ngoài đường uống cà-phê, ăn bánh mì bên cạnh lò than nóng hổi đang đun nước sôi. Chúng tôi kể cho nhau nghe về đời sống. Anh Hùng mang hai dòng máu, Việt và Côte d’Ivoire. Bố theo lính Pháp sang chiến đấu tại Việt Nam thời thập niên 1950. Anh mới được bảo trợ qua xứ này từ năm 1980. Nghĩa là anh Hùng đã sống ở Việt Nam có đến ba chục năm. Nhìn nước da đen của anh tôi nhớ bạn Phước học cùng lớp thời trung học ở trường Nguyễn Bá Tòng. Phước cũng là đứa con lai da đen, vui tính, rất thích kể chuyện và nhất là thích xướng giọng nhiều bài hát cộng đồng. Như thế anh Hùng hơn tôi vài tuổi, sống ở Việt Nam lâu hơn tôi vì năm 1975 tôi đã qua Mỹ và giờ làm việc ở châu lục này. Hai năm qua tôi không có dịp nói tiếng Việt nhiều như hôm nay.

Nghe kể về bố và cuộc đời anh, tôi liên tưởng đến một thời dư luận Sài Gòn xôn xao khi Tổng thống Cộng hoà Trung Phi Bokassa đi tìm con gái mà ông bỏ lại Việt Nam thời lính đã trở thành câu chuyện “cô bé lọ lem”. Anh Hùng không có phúc như thế, nhưng nay cũng đã ra khỏi Việt Nam là điều may mắn cho anh. Các lãnh đạo ở châu Phi tôi biết còn có Tổng thống Gnassingbé Eyadéma của Togo cũng là lính viễn chinh từng sang chiến đấu ở Đông Dương.

Ăn sáng xong anh đưa tôi đi quanh chợ. Đây là khu chợ bình dân nổi tiếng buôn bán sầm uất nhất thành phố. Nhiều cửa hàng quần áo. Anh chỉ cho thấy mấy tiệm tạp hoá và thực phẩm của người Việt, một tiệm tên Nam Định với nhiều đồ gia dụng nhôm nhựa treo phiá trước.

Quầy hàng bán quần áo

Tôi mời anh đi ăn trưa và đề nghị nhà hàng Le Dalat mà anh có biết.

Lên xe buýt. Đến nơi mới thấy Le Dalat không xa Kim Hoa chỗ ăn trưa hôm qua, chỉ cách nhau mươi bước.

Ngoài hiên có người đàn ông gốc Á đang phì phào thuốc lá. Chưa đến giờ mở cửa nhưng ông mời chúng tôi vào sân trò chuyện. Khi biết tôi là người Việt đến từ Hoa Kỳ, ông kể cho nghe về những chuyến đi Mỹ của ông, đến San Francisco, ghé San Jose ăn Phở Saigon, xuống nam California ăn Phở 79. Biết tôi thích phở và là người đến từ California, ông lên tiếng bảo đảm: “Nhà hàng của tôi không quảng cáo rầm rộ, nhưng bảo đảm với anh là ngon và rẻ vô địch. Không ai bì được.” Xin phép hỏi tên. Ông giới thiệu quý danh Đỗ Đắc Lộc, nguyên tổng lãnh sự Việt Nam Cộng Hoà tại đây trước năm 1975. Sau khi miền Nam đầu hàng ông và gia đình chọn ở lại đây định cư và mở quán ăn vài năm nay.

Nhà hàng Le Dalat

Nhà hàng bên trong không lớn lắm. Trang nhã với mấy bình sứ Việt, ít lồng đèn Tầu, vài bức tranh trên tường, hoa trên bàn.

Tôi muốn ăn phở. Anh Hùng cũng thế. Tôi gọi hai phở bắc và dĩa bì cuốn ăn thêm. Bác Lộc cho biết không như những quán ăn Việt khác với thực phẩm nhập cảng từ Pháp, còn Le Dalat nhập cảng từ Hoa Kỳ. Mỗi năm bác đều qua California nghỉ hè, khi về đem theo nhiều tấn hàng.

Trên tờ thực đơn, phiá sau có bài báo New York Times năm 1982 giới thiệu nhà hàng, nội dung khen Le Dalat thuần túy Việt, ngon và rẻ. Tác giả cũng dùng chữ “nem” trong bài để nói về món chả giò của quán và cách ăn là cuốn với sa-lát, rau thơm, chấm nước mắm là ngon hết ý.

Hỏi về lịch sử món nem trên đường phố bác Lộc nói do mấy ông lính Lê Dương đem về nước sau thời gian phục vụ ở Đông Dương.

Người con của bác bưng ra hai tô phở tái bốc khói, thơm phức. Anh Hùng hỏi giá sống, bác nói mấy bữa nay nóng không làm giá được. Tôi hỏi rau thơm thì có húng quế. Tôi chầm chậm thưởng thức món quốc hồn quốc tuý của quê hương nơi vùng đất lạ. Phải công nhận phở Le Dalat vừa rẻ, 900F một tô lớn, thơm ngon không thua gì phở 13 ở San Jose. Bì cuốn giá 730F cũng ngon, nhất là mùi húng rất đượm, chắc do bởi khí hậu nhiệt đới giống ở Việt Nam.

Rời quán Le Dalat chúng tôi chia tay nhau vì đến giờ anh Hùng phải đi làm. Tôi cám ơn anh đã bỏ thời giờ đón tiếp và hướng dẫn tham quan ít nơi ở xứ Ngà, cho tôi hiểu biết hơn về đời sống thường nhật, về người Việt ở đây. Tôi hẹn anh có dịp gặp nhau bên Mỹ.

Báo Fraternité Martin ngày 29.03.1985 đưa tin Giáo hoàng Gioan-Phaolô II có thể đến khánh thành Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô đang được kiến thiết tại thủ đô Yamoussoukro, một công trình kiến trúc vĩ đại phỏng theo mô hình Quảng trường và Đền thánh Phêrô ở Roma

Mấy ngày du lịch Abidjan tôi còn gặp mấy nhà hàng bán thức ăn Việt nữa: Baguette d’Or, Kim Sơn, Hoà Bình, Santal, Mekong và ghé ăn thử vài nơi với các món cơm, sào. Nhưng ngon, rẻ và đầy hương vị Việt Nam nhất là Le Dalat.

Lúc ăn ở Le Dalat, đọc bài trên New York Times có ghi nhận số người Việt sinh sống ở đây hơn 3 nghìn.

Ở một nơi rất xa quê hương, chỉ có vài nghìn người Việt trong số hơn một triệu cư dân mà Abidjan cũng có đến chục nhà hàng bán thức ăn Việt, nhiều ki-ốt bán nem, bánh tôm chiên bên đường, có vài tiệm thực phẩm Việt. Món ăn Việt như thế cũng hấp dẫn và được phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới đấy chứ.

(ảnh trong bài của tác giả)

© 2012, 1985 Buivanphu

About Bùi Văn Phú

Bùi Văn Phú is a community college instructor and a freelance writer from San Francisco Bay Area. He worked with Peace Corps as a volunteer high school teacher in Togo, Africa and an educational consultant for United Nations High Commissioner for Refugees in Southeast Asia. Bùi Văn Phú hiện dạy đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do sống tại vùng Vịnh San Francisco, California. Trong thập niên 1980, ông làm tình nguyện viên của Peace Corps dạy trung học ở Togo, Phi Châu và làm tham vấn giáo dục cho Cao ủy Tị nạn Liên hiệp quốc tại Đông nam Á.
This entry was posted in người Việt hải ngoại, văn hóa du lịch, đời sống and tagged , , , , . Bookmark the permalink.

2 Responses to Người Việt và nem, phở ở châu Phi [Bài 3]

  1. Pingback: Tin Chủ Nhật, 26-02-2012 « BA SÀM

  2. Pingback: Tin Chủ Nhật, 26-02-2012 | Dahanhkhach's Blog

Leave a comment