Người Việt và nem, phở ở châu Phi [Bài 2]

Bùi Văn Phú

[Đây là bài thứ nhì trong ba bài về chuyến du lịch Ghana và Côte d’Ivoire của tác giả vào mùa xuân năm 1985 với những gặp gỡ đầy bất ngờ và thích thú]

[Bài 1] * [Bài 3]

Một con đường với những sạp hàng buôn bán sầm uất trong khu lao động của Abidjan

Rong chơi Abidjan tôi đi qua một rạp xi-nê mang tên quen thuộc như ở Sài Gòn: Rex. Vào một quán có bàn ngoài hiên bên cạnh, gọi li cà-phê sữa nóng, ăn bánh croa-săng quyệt bơ và mứt trái cây. Ngày ở quê nhà, con nhà nghèo nên tôi chẳng có cơ hội vào những quán ở trung tâm thành phố uống cà-phê, ăn sáng mà chỉ đi dạo chơi lề đường, ăn bò bía trước bưu điện hay vào Khai Trí đọc cọp sách. Sau bao năm xa cách quê nhà hôm nay nhìn quanh đây sao giống như Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Tự Do năm nào. Abidjan được gọi là Petit Paris của miền tây châu Phi. Có lẽ đúng. Cũng như Sài Gòn từng được gọi như thế của miền Viễn Đông.

Thành phố nhiều bóng cây xanh, bin-đinh cao tầng với kiến trúc tân kì. Gần toà nhà kim tự tháp có ngân hàng CitiBank bên cạnh những cửa hàng quần áo, túi xách, mỹ phẩm. Đông người qua lại trên phố, âu phục có, trang phục địa phương cũng có, nhiều người mặc áo trắng dài, đội nón trắng theo phong tục Hồi giáo. Phụ nữ váy dài như tu-nic hay quấn sà-rông mầu sắc rực rỡ, đẹp mắt. Giữa buổi sáng của một ngày trong tuần nhưng tôi thấy nơi đây mang vẻ tưng bừng, nhộn nhịp lạ thường. Hay tại hai năm qua sống ở một tỉnh nhỏ hiu quạnh, thiếu điện nước, nay có dịp du lịch thành phố lớn nên cho tôi cảm nhận như thế?

Uống cà-phê xong, qua bưu điện mua bưu thiếp gửi cho bạn bè phương xa. Mở xem niên giám điện thoại tìm tên người Việt. Họ Nguyễn có 5. Họ Trần 4 và Phạm 3. Không ai họ Bùi. Tìm nhà hàng bán thức ăn Việt có dăm bảy cái, tên Việt cũng có mà tên Pháp cũng có. Tôi ghi địa chỉ vài tiệm ở khu Plateau để dễ tìm đến khi đói.

Sau khi viết thư, gửi bưu thiếp xong, tiếp tục lang thang. Trời nắng nóng nhưng nhờ đường phố nhiều cây xanh bóng mát nên tôi thư thả đi bộ được lâu.

Boulevard de la République tràn ngập người đứng đón xe buýt vì đang là giờ tan sở giấc trưa. Nhìn những chuyến xe táp vào bến liên tục tôi thấy hệ thống chuyên chở công cộng ở đây rất hữu hiệu. Cứ đôi ba phút một chuyến, xe nào cũng đông khách đứng ngồi chen chúc. Bên đường nhảy múa sắc mầu của trang phục. Trong đời, ngoại trừ vài lần xem diễn hành dịp lễ hội ở Togo, có lẽ tôi chưa bao giờ thấy đường phố ở đâu rực rỡ đẹp như nơi đây. Những thiếu nữ, những thanh niên mặc y phục mang đặc tính địa phương nhiều mầu sặc sỡ, nổi bật.

Đền thờ Hồi giáo

Tôi ghé vào một trạm xe, đưa địa chỉ hỏi thăm tìm đường đến nhà hàng Le Dalat, 12 Rue Paris-Village. Một thanh niên chỉ hướng cho biết cũng gần đây, có thể đi bộ.

Theo lời chỉ đường, vào lại khu thương mại chính. Đi ngang Trung tâm Văn hoá Pháp thấy nhiều biểu ngữ, bích chương quảng bá cho thảo luận, diễn kịch, chiếu phim về Victor Hugo nhân dịp kỉ niệm 100 năm húy nhật đại văn hào Pháp. Tôi ghé xem có gì lạ nhưng đang giờ nghỉ trưa nên trung tâm đóng cửa.

Ngoài sân nhiều người ngồi bên bậc thang và ghế dài trên sân cỏ ăn trưa. Tìm bóng mát dưới một tàn cây để dừng chân, dò lại địa chỉ nhà hàng. Hỏi một người xem còn cách bao xa, anh cho biết cũng gần thôi.

Rời trung tâm văn hoá, đi vài chục bước thấy một nhà hàng Việt, nhưng không phải tiệm đang muốn đến. Tên Kim Hoa thật to trên bảng hiệu đập vào mắt. Dưới là tủ kính bày nhiều chậu hoa che khuất phía trong. Vì đã đói nên tôi vào tiệm này thay vì tiếp tục đi tìm nhà hàng Le Dalat.

Bước vào trong. Người đàn ông đang ngồi ở quầy bán rượu ra đón đưa tôi vào một bàn. Lối trang trí vừa mang vẻ Việt Nam, mấy búp bê thiếu nữ đội nón lá; vừa vẻ Nhật, những chậu bonsai và vừa có nét Trung Hoa là tranh sơn thuỷ. Tờ thực đơn thuần món Việt: phở, hủ tiếu, các món rau, món sào nhưng giá khá đắt so với lương tình nguyện của tôi.

Tôi gọi tô hủ tiếu, 1400F và nước đá lạnh. Quán có dăm bảy khách. Nghe những người làm việc nói tiếng Việt, tôi biết là gia đình người miền Nam.

Người hầu bàn da đen bưng ra tô hủ tiếu nóng hổi. Nước trong, bánh trắng đục lờ lờ, phiá trên có hai con tôm trắng hồng, vài miếng thịt, ít cải bắc thảo vàng, lác đác mấy cọng hành xanh trông đẹp mắt. Như thế là đầy đủ hương vị quê nhà nơi đất châu Phi xa xôi.

Ngon. Nhưng giá hơi đắt. Khi trả tiền tôi hỏi thăm và được biết tiệm mới mở được gần hai năm.

Chiều đón xe buýt qua khu Cocody. Theo sách hướng dẫn du lịch khu này có ngôi chợ nổi tiếng với nhiều trái cây nhiệt đới và những gian hàng bán đổ kỉ niệm bằng ngà, đá và đồng.

Cặp tượng đồng là đồ kỉ niệm tác giả còn giữ

Xe dừng ngay trước chợ. Vừa bước xuống tôi đã bị một đám bạn hàng lôi kéo chào mua. Biết tôi là du khách, vì da vàng, nên ai cũng muốn kéo vào quầy hàng của họ để giới thiệu những món quà kỉ niệm. Tôi không ghé ngay mà rẽ vào nơi bán trái cây, rau cải. Nhiều nhất là soài cát chín. Bên cạnh có măng cầu xiêm vỏ có gai, đu đủ vàng, roi hồng. Tôi mua bốn trái roi vì từ ngày rời Việt Nam chưa được ăn lại và một trái soài, tất cả 200F.

Trở lại nơi bán đồ kỉ niệm lại bị níu kéo bởi năm bảy người bán. Chung quanh thấp thoáng có du khách Pháp, Nhật, Đức cũng đang bị mời mua hàng. Vô số đồ kỉ niệm bày bán la liệt dưới đất, trên kệ và dọc theo hành lang. Tôi chỉ muốn mua đồ đá hay đồng ở đây vì tay nghề mỹ thuật cao hơn những nước khác. Đồ ngà voi không biết thật giả và bị cấm mang vào Mỹ nên tôi không muốn mua.

Đi mua hàng ở đây, cũng như ở các nước chung quanh, là phải biết trả giá. Nghệ thuật này tôi học được từ ngày đến Togo làm việc. Hỏi giá một vài mặt nạ gỗ và tượng đồng hợp ý, người bán hàng ra giá từ 12,000F đến 20,000F. Du khách phương Tây thường không quen mặc cả nên trả giá cao. Nhất là mua đồ kỉ niệm mà trả một nửa là coi như hớ rồi, trả một phần ba có khi vẫn còn cao.

Một tượng đồng ông lão đang chơi nhạc cụ được ra giá 15,000F. Tôi trả 3,000. Người bán phân trần làm sao có thể bán một tượng to và đẹp thế này với giá đó. 14,000, anh ta xuống giá. Tôi lắc đầu. Giá chót 13,000. Người bán hàng xuống giá một lần nữa. Bỏ đi. Anh ta kéo lại. Giá chót của anh là bao nhiêu? Tôi trả 3,500. 12,000 là giá chót, chót, chót. Anh nhấn mạnh. Bỏ đi lần nữa. Người bán hàng nắm tay kéo lại, lấy tượng đặt vào tay tôi, kèm theo một câu: 10,000 tôi bán ngay, giá này rẻ nhất chợ. Tôi nhất định từ chối rồi qua một gian hàng khác. Như thế là không thể mua được tượng với giá 3,500F.

Qua nhiều quầy hàng, mặc cả tới lui tôi mua được ít món quà kỉ niệm. Hai tượng đồng cao 30 phân là một người đàn ông săn bắn và một phụ nữ phơi ngực đội thúng ra chợ rất đặc thù châu Phi, giá 8,000F. Thêm ba sâu chuỗi bằng đá giá cũng 8,000F sau khi trả giá từ 21,000F.

Đại lộ dẫn vào trung tâm thành phố Abidjan, thành phố phát triển nhất của miền Tây lục địa châu Phi

Thành phố Abidjan nhìn từ trên cao. Bưu ảnh năm 1985

(ảnh trong bài của tác giả)

© 2012, 1985 Buivanphu

About Bùi Văn Phú

Bùi Văn Phú is a community college instructor and a freelance writer from San Francisco Bay Area. He worked with Peace Corps as a volunteer high school teacher in Togo, Africa and an educational consultant for United Nations High Commissioner for Refugees in Southeast Asia. Bùi Văn Phú hiện dạy đại học cộng đồng và là một nhà báo tự do sống tại vùng Vịnh San Francisco, California. Trong thập niên 1980, ông làm tình nguyện viên của Peace Corps dạy trung học ở Togo, Phi Châu và làm tham vấn giáo dục cho Cao ủy Tị nạn Liên hiệp quốc tại Đông nam Á.
This entry was posted in tản văn, văn hóa du lịch, đời sống and tagged , , , . Bookmark the permalink.

3 Responses to Người Việt và nem, phở ở châu Phi [Bài 2]

  1. Pingback: Tin thứ Bảy, 18-02-2012 « BA SÀM

  2. Pingback: Tin Chủ Nhật, 26-02-2012 « BA SÀM

  3. Pingback: Tin Chủ Nhật, 26-02-2012 | Dahanhkhach's Blog

Leave a comment